Tuyên tuyền và phổ biến, giáo dục pháp luật
Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
Tình huống: Bà Lương Thị B làm việc tại Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Bao bì VN từ khoảng năm 2016 đến tháng 4/2021. Trong quá trình làm việc thì giữa công ty và bà B có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với mức lương cơ bản là: 4.000.000 đồng và có trích nộp Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp đầy đủ theo thỏa thuận trong hợp đồng. Ngày 20/4/2021, Ban giám đốc Công ty TNHH Thương mại Sản xuất Bao bì VN ra thông báo cho toàn thể nhân viên nghỉ làm với lý do nghỉ hè từ ngày 20/4/2021 đến ngày 09/5/2021 và đi làm lại từ ngày 10/5/2021. Tuy nhiên, đến ngày 08/5/2021, bà Phạm Thị C, giám đốc công ty gọi điện thoại cho bà B yêu cầu bà B nghỉ việc và không nêu rõ lý do nghỉ việc. Sau đó, bà B đã đến công ty yêu cầu tiếp tục làm việc nhưng phía công ty ngăn cản không cho vào làm. Bà B gửi thư yêu cầu tư vấn cho bà đối với trường hợp nêu trên.
Đối với trường hợp này, tôi xin tư vấn như sau:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019 quy định người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;
b) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.
Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động;
c) Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc;
d) Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật này;
đ) Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
e) Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên;
g) Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.Trường hợp người sử dụng lao động đã tự ý đơn phương chấm dứt hợp động lao động mà không có các căn nêu trên thì sẽ thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Theo quy định nêu trên, nếu như người sử dụng lao động đã tự ý chấm dứt hợp đồng lao động mà không có các căn cứ nêu trên thì sẽ thuộc trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt trái pháp luật. Ngoài ra, Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019 quy định khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và g khoản 1 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2019, người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động như sau:
a) Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;
c) Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
Trong trường hợp này, phía công ty đã không nêu rõ lý do cho bà B nghỉ việc. Điều này đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà. Do đó, hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái với quy định của pháp luật.
Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ như sau:
Theo quy định tại Điều 41 Bộ luật lao động năm 2019 quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
1) Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động.
Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật lao động năm 2019 thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.
2) Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động năm 2019 để chấm dứt hợp đồng lao động.
3) Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật lao động năm 2019, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
Trong trường hợp này, Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường cho người lao động, bao gồm các khoản sau đây:
+ Tiền lương cho những ngày người lao động không được làm việc cho đến thời điểm công ty thực hiện bồi thường hoặc do 02 bên thỏa thuận;
+ Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian người lao động không được làm việc;
+ Bồi thường 02 tháng lương, nếu 02 bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thì bồi thường thêm ít nhất 02 tháng lương (mức bồi thường thấp nhất là từ 04 tháng lương trở lên);
+ Phía công ty đã vi phạm quy định về thời gian báo trước thì phải bồi thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước;
Lê Thanh Bình

